Trang

Sunday, April 7, 2013

GS Nguyễn Văn Tuấn: "Đóng góp của Nafosted: lượng nhiều, chất thấp"

Nguồn: http://nguyenvantuan.net/science/4-science/1694-dong-gop-cua-nafosted-luong-nhieu-chat-thap

http://tiasang.com.vn/DesktopModules/VietTotal.Articles/ImageHandlerLarge.ashx?width=210&height=164&HomeDirectory=%2FPortals%2F0%2FVietTotal.Articles%2FTintucsukien%2F&fileName=Highlight-NAFOSTED.jpg&portalid=0&i=4380&q=1Sự ra đời của Nafosted là cả một nỗ lực tích cực đáng được ghi nhận vì Quĩ tạo cơ hội cho những nhà khoa học muốn đưa khoa học VN hội nhập quốc tế. Vài năm trước, nhân dịp đọc những số liệu về tài trợ cho nghiên cứu khoa học của Quĩ Nafosted, tôi có nêu vấn đề mất cân đối vùng miền trong tài trợ mà không biết tại sao. Sau 5 năm hoạt động, tôi muốn biết Nafosted "làm ăn" ra sao, và đã thu thập vài dữ liệu để có một cái nhìn toàn cảnh.  Bài này điểm qua những thành tựu của Nafosted và nêu ra vài vấn đề còn tồn đọng mà tôi hi vọng sẽ tốt hơn trong tương lai.  (Bài đã đăng trên Tuôi trẻ cuối tuần)

Trong thời gian qua, hoạt động nghiên cứu khoa học ở nước ta còn khá lu mờ so với các nước trong vùng. Số công trình nghiên cứu khoa học và ấn phẩm khoa học của Việt Nam thuộc vào nhóm các nước thấp nhất trên thế giới. Bảng xếp hạng của tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (World Intellectual Property Organization – WIPO) cho thấy Việt Nam đứng thứ 76 trên 141 nước về khả năng sáng tạo và cách tân. Báo cáo của UNESCO cho thấy trong thời gian 2000 – 2007, các nhà khoa học Việt Nam chỉ đăng kí được 19 bằng sáng chế, tức mỗi năm trung bình chỉ hai bằng sáng chế. Có năm (như 2002, 2011) không có bằng sáng chế nào được đăng kí.
Bối cảnh ra đời của NAFOSTED
Một trong những vấn đề (hay cũng có thể nói là rào cản) cho nghiên cứu khoa học là vấn đề tài trợ cho nghiên cứu. Trong quá khứ, cơ chế tài trợ cho nghiên cứu khoa học không thoả đáng, và cách xét duyệt thiếu tính khách quan, nên dẫn đến nhiều bất công. Người có khả năng làm nghiên cứu thì không được tài trợ; ngược lại, người được tài trợ thì thiếu khả năng làm nghiên cứu khoa học có thể công bố quốc tế. Hệ quả là rất nhiều tiền chi cho khoa học, nhưng hàm lượng tri thức đóng góp cho thế giới thì chẳng bao nhiêu. Trước tình hình đó, Nhà nước tìm cách thay đổi cơ chế xét duyệt và tài trợ cho nghiên cứu khoa học. Quĩ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (gọi tắt là Nafosted) ra đời. Sứ mệnh của Quĩ Nafosted là tạo ra một sân chơi công bằng hơn trong hoạt động khoa học, và nâng cao hàm lượng tri thức cho nền kinh tế nước nhà. 
Quĩ Nafosted được chính thức phê chuẩn từ năm 2003, nhưng mãi đến cuối năm 2008 mới bắt đầu đi vào hoạt động. Trong thời gian 5 năm qua, Quĩ Nafosted đã nhận được nhiều lời khen ngợi, và được cho là thành công. Có người đánh giá Nafosted là một “cuc cách mng trong qun lý khoa hc ca Vit Nam”, và “Qus tr thành ch da tin cy ca các nhà nghiên cu”. Tuy nhiên, những đánh giá đó chủ yếu là nhận xét cá nhân, chứ chưa dựa trên một cơ sở định lượng nào. Để có cái nhìn khách quan hơn, cần phải xem xét đến tiêu chí hoạt động, hiệu suất nghiên cứu, và đóng góp cho khoa học quốc gia nói chung.  
Số lượng bài báo khoa học
Mục tiêu của Quĩ Nafosted là xiển dương nghiên cứu khoa học cơ bản, gia tăng ấn phẩm khoa học, và hợp tác quốc tế. Đạt được những mục tiêu đó cũng là một cách để nâng cao hàm lượng tri thức trong nền kinh tế. Đó không phải là những mục tiêu quá cao hay tham vọng, nhưng cũng là một nỗ lực ban đầu rất đáng khuyến khích.
Có thể nói rằng ở một chừng mực nào đó, Nafosted đã đạt được mục tiêu ban đầu. Theo số liệu của Nafosted, trong thời gian 4 năm qua, Nafosted đã cấp tài trợ cho khoảng 1000 đề tài khoa học. Số nhà khoa học được tài trợ là khoảng 3500 người.
Một mục tiêu quan trọng của Quĩ Nafosted là tăng số ấn phẩm khoa học trên các tập san quốc tế. Do đó, để biết hiệu suất của số tiền đầu tư trên, cần phải xem qua số ấn phẩm khoa học công bố trên các tập san quốc tế. Tổng số bài báo khoa học công bố trên các tập san quốc tế trong thời gian 4 năm qua là 721 bài. Trong cùng thời gian, tổng số bài báo khoa học từ Việt Nam là 5511. Nói cách khác, Quĩ Nafosted đã đóng góp khoảng 13% cho tổng số bài báo khoa học của Việt Nam (Hình 1). Nhưng đóng góp của Nafosted tăng theo năm. Chẳng hạn như năm 2010, số bài báo do tài trợ của Nafosted chỉ chiếm 10% tổng số bài báo, nhưng con số này tăng gấp 2 lần vào năm 2012.
Hình 1: Số lượng bài báo khoa học công bố trên các tập san quốc tế trong thời gian 2009 – 2012, phân theo nhóm được Nafosted tài trợ (thanh chéo) và ngoài Nafosted (thanh màu đậm). Hình cho thấy đóng góp của Nafosted cho hoạt động nghiên cứu khoa học tăng nhanh trong năm 2012. Nguồn dữ liệu: Web of Science của ISI, ngày truy cập: 28/2/2013.
Tuy nhiên, đóng góp của các công trình do Nafosted tài trợ không đồng đều giữa các ngành khoa học. Bảng 1 dưới đây cho thấy trong thời gian 2009-2012 các nhà khoa học Việt Nam công bố được 798 bài báo liên quan đến ngành toán; trong số này có 258 bài do Nafosted tài trợ. Nói cách khác, gần 1/3 những công trình về toán trong thời gian 4 năm qua là do Nafosted tài trợ. Con số này cho ngành vật lí là 29%. Ngành khoa học vật liệu cũng có đóng góp đáng kể của Quĩ Nafosted, với tỉ trọng 25%.
Riêng trong lĩnh vực y sinh học, đóng góp của Nafosted rất thấp: trong thời gian 2009-2012, Việt Nam công bố được 1130 bài báo về y sinh học, chiếm 20% trên tổng số bài báo từ Việt Nam. Nhưng trong tổng số bài báo do Nafosted tài trợ, chỉ có 8% bài liên quan đến lĩnh vực y sinh học. Nói cách khác, Nafosted chỉ đóng góp khoảng 5% bài báo y sinh học cho cả nước. Điều này có thể hiểu được, vì tiền tài trợ cho mỗi dự án của Nafosted còn khá khiêm tốn, chưa đủ để thực hiện các dự án nghiên cứu qui mô và tầm cỡ quốc tế.
Bảng 1: Số bài báo khoa học 2009-2012 phân nhóm theo một số lĩnh vực nghiên cứu chính

Ngành
Số bài báo của cả nước
Số bài báo khoa học do Nafosted tài trợ
Phần trăm đóng góp của Nafosted
Toán
798
258
32.3
Vật lí
666
191
28.7
Hoá học
592
99
16.7
Kĩ thuật
451
66
14.6
Khoa học vật liệu
346
88
25.4
Y sinh học
1130
59
5.2
Ghi chú: số liệu trích từ cơ sở dữ liệu của Web of Science (ISI).
Thật ra, toàn bộ ngân sách của Quĩ Nafosted cũng tương đối khiêm tốn. Tính trung bình, mỗi năm Nafosted chỉ có 200 tỉ đồng (tức khoảng ~10 triệu USD). Con số này phải đặt trong bối cảnh ngân sách Nhà nước dành cho khoa học mỗi năm là khoảng 15,000 tỉ đồng (tức ~750 triệu USD). Nói cách khác, ngân sách tài trợ của Nafosted chỉ chiếm khoảng 1.3% tổng ngân sách cho khoa học của cả nước.
Phần lớn tài trợ của Nafosted có thể ví von là “xoá đói giảm nghèo”, chứ không hẳn là cho hoạt động nghiên cứu khoa học. Mỗi đề tài nghiên cứu được tài trợ, Nafosted trả tiền lương cho người chủ trì khoảng 18 triệu mỗi tháng, thành viên nghiên cứu chính là 11 triệu/tháng, nghiên cứu sinh khoảng 6 triệu/tháng, kĩ thuật viên 3.6 triệu/tháng. Do đó, nếu một đề tài gồm 4 người, và đề tài kéo dài 2 năm, thì tiền lương đã lên đến 720 triệu đồng. Đối với các đề tài nghiên cứu thực nghiệm, có lẽ không còn tiền để làm thí nghiệm. Hoặc nếu chi tiền để làm thí nghiệm thì người chủ trì đề tài bắt buộc phải “thắt lưng buộc bụng”!
Chất lượng nghiên cứu
Trên đây là những kết quả phản ảnh khía cạnh lượng, chứ chưa nói lên khía cạnh phẩm chất và tầm ảnh hưởng của nghiên cứu. Chất lượng nghiên cứu có thể phản ảnh một phần qua chỉ số ảnh hưởng của tập san khoa học (còn gọi là impact factor hay IF). Tập san có tầm ảnh hưởng cao thường có IF cao. Nói chung, hầu hết các bài do Nafosted tài trợ đều được công bố trên những tập san có chỉ số IF rất thấp (dưới 2). Điểm qua danh sách 721 bài, tôi không thấy một bài nào được công bố trên tập san có IF trên 6.
Do đó, không ngạc nhiên khi thấy tần số trích dẫn của các bài do Nafosted tài trợ còn rất thấp.   Tính trung bình (cho tất cả các ngành khoa học), mỗi bài của Nafosted tài trợ được trích dẫn 0.74 lần. Trong cùng thời gian, số bài không do Nafosted tài trợ có chỉ số trích dẫn là 2.35 lần, cao hơn 3 lần so với những bài của Nafosted tài trợ. Thật ra, gần 75% (537 trên 721) công trình do Quĩ Nafosted tài trợ chưa bao giờ được trích dẫn trong thời gian 2009 đến tháng 2 2013. Chỉ có 10 bài (trong số 721 bài) được trích dẫn từ 10-20 lần!
Hình 2 dưới đây cho thấy tần số trích dẫn dao động lớn giữa các ngành khoa học. Như kì vọng, ngành toán có tần số trích dẫn thấp nhất, một phần là do “văn hoá” trong ngành. Nhưng bất cứ ngành nào, các công trình do Nafosted tài trợ đều có chỉ số trích dẫn thấp hơn các công trình ngoài Nafosted. Chẳng hạn như ngành y sinh học, tần số trích dẫn của các công trình Nafosted tài trợ chỉ 0.39, trong khi đó công trình ngoài Nafosted có tần số trích dẫn lên đến 4.33. Bài báo trong ngành vật lí và hoá không do Nafosted tài trợ có chỉ số trích dẫn cao gấp 2.6 đến 3.2 lần so với các công trình do Nafosted tài trợ.
Hình 2: Số lần trích dẫn tính trên mỗi bài báo khoa học do Nafosted tài trợ (thanh chéo màu đỏ), và ngoài Quĩ Nafosted (thanh màu xanh đậm), phân theo lĩnh vực nghiên cứu. Hình này cho thấy tầm ảnh hưởng của các nghiên cứu do Nafosted tài trợ còn rất thấp. Nguồn dữ liệu: Journal Citation Report của ISI, ngày truy cập: 28/2/2013.
Cần nhiều cải cách
Những phân tích trên cho thấy mặc dù đã đạt được mục tiêu ban đầu về nâng cao số lượng bài báo khoa học, nhưng Nafosted vẫn còn giải quyết một vấn đề khó hơn và gai góc hơn: chất lượng nghiên cứu. Hiện nay, chất lượng nghiên cứu của những công trình do Nafosted tài trợ, qua chỉ số trích dẫn, vẫn còn quá thấp. Ngoài ra, một số vấn đề khác cũng cần cải cách, nhất là vấn đề “đấu thầu ý tưởng” và qui định về bằng cấp.
Hiện nay, qui trình “đấu thầu” có thể tóm tắt như sau: (i) bước đầu, Bộ KHCN kêu gọi các nhà khoa học nêu ý tưởng; (ii) các nhà khoa học nộp ý tưởng; và (iii) các nhà khoa học khác, có thể không phải là người nêu ý tưởng, tham gia đấu thầu, và người đấu thầu giá thấp nhất sẽ được cấp tài trợ. Có thể nói ngay rằng đó là một qui trình rất lạ. Trong khoa học, người ta bảo vệ ý tưởng và giữ kín ý tưởng, chứ không phải đấu thầu trước công chúng như thế. Càng không có chuyện người khác lấy ý tưởng rồi ra giá thấp nhất. Ngay cả các chuyên gia bình duyệt đề cương nghiên cứu cũng phải cam đoan bảo mật tuyệt đối, không được phép tiết lộ ý tưởng và phương pháp của đề cương nghiên cứu. Do đó, cần phải xem lại qui trình đấu thầu ý tưởng nghiên cứu của Bộ KHCN. Nghiên cứu khoa học không phải là đấu thầu xây dựng. Qui trình này trong thực tế đã gây ra nhiều bức xúc trong giới khoa học, nhất là những người trẻ, và làm cho họ thiếu động cơ để xin tài trợ từ Nafosted.
Một qui định của Nafosted là chủ trì đề tài phải có bằng tiến sĩ, và qui định này làm cho nhiều bạn trẻ trong ngành y có kinh nghiệm nghiên cứu nhưng vì không có bằng tiến sĩ nên không có cơ hội tham gia nghiên cứu khoa học. Ở nước ngoài, không ai ngăn cản người có văn bằng MD (bác sĩ) làm nghiên cứu. Trong thực tế, rất nhiều MD có công trình nghiên cứu tốt hơn nhiều so với những người có bằng tiến sĩ, bởi vì bác sĩ tiếp cận với bệnh nhân và phát hiện vấn đề thiết thực hơn những người không có cơ hội đó. Ngoài ra, những người ngoài ngành y với bằng thạc sĩ vẫn có thể làm nghiên cứu, và làm tốt hơn so với những người có bằng tiến sĩ. Theo tôi, tiêu chí để cấp tài trợ là ý tưởng, tính khả thi, tầm ảnh hưởng, và đạo đức khoa học, chứ không phải bằng cấp. Đặt ra qui định chỉ có người với bằng này hay bằng kia mới được làm nghiên cứu là một hình thức kì thị, và trong môi trường thật giả lẫn lộn như ở Việt Nam, qui định như thế chỉ gây thiệt thòi cho khoa học.
Tóm lại, những dữ liệu trên đây cho thấy rõ ràng rằng Quĩ Nafosted đã có một đóng góp tích cực vào môi trường và hoạt động nghiên cứu khoa học của nước nhà. Quĩ đã tạo ra một sân chơi bình đẳng hơn cho các nhà khoa học trẻ, dù vẫn còn hạn chế về qui định bằng cấp. Ngân sách của Nafosted chỉ chiếm 1.3% tổng ngân sách cho khoa học của cả nước, nhưng đã đóng góp 20% tổng số bài báo khoa học của cả nước, và đó là một thành công đáng kể.
Tuy nhiên, thành công của Nafosted chỉ mới ở khía cạnh lượng, chứ chưa ở khía cạnh chất. Như phân tích trên chỉ ra, những công trình do Nafosted tài trợ chưa gây ảnh hưởng trong chuyên ngành, vì chỉ số trích dẫn quá thấp. Tuy nhiên, có lẽ thời gian 5 năm vẫn còn khá sớm để đánh giá về tầm ảnh hưởng, nhất là đối với các công trình liên quan đến ngành kĩ thuật và toán. Nhưng số lần trích dẫn trong vòng 5 năm có mối tương quan với số lần trích dẫn về lâu về dài, vì thế có thể nói rằng 2 phần 3 bài báo chưa bao giờ được trích dẫn sau 5 năm là một con số gần mức báo động.
Năm 2012, Nhà nước chi khoảng 15.000 tỉ đồng (hay ~750 triệu USD) cho nghiên cứu khoa học. Con số này tương đương với 2% ngân sách Nhà nước hàng năm và 0.25% tổng GDP quốc gia (tương đương với tỉ trọng của Thái Lan, 0.25%). Tuy nhiên, 90% của số tiền này là để nuôi sống hơn 60.000 người làm nghiên cứu khoa học trong 1.600 tổ chức khoa học và công nghệ. Chỉ 10%, tức khoảng 1.500 tỉ đồng, là dành cho hoạt động nghiên cứu khoa học, và đó có lẽ là một giải thích tại sao năng suất khoa học của Việt Nam chỉ bằng 1/5 của Thái Lan. Sự thành công ban đầu của Nafosted cho thấy nếu việc phân phối tài trợ cho nghiên cứu khoa học bình đẳng hơn và phù hợp với chuẩn mực khoa học quốc tế, thì chúng ta có thể kì vọng rằng hoạt động khoa học Việt Nam sẽ nhanh chóng cận kề với các nước trong vùng như Thái Lan và Mã Lai.
Ghi thêm 8/4/2013:
Tôi xin đính chính là đoạn bàn về "đấu thầu" tôi không có ý nói Nafosted làm như vậy, tôi chỉ muốn đề cập đến qui trình mà các quĩ / tỗ chức khác làm như thế, nên có ghi rõ là "Bộ KHCN" chứ không có Nafosted ở đó, nhưng chẳng hiểu sao trênTuổi trẻ thì cụm từ này ... biến mất (chắc là do biên tập).

No comments:

Post a Comment